Pháp luật về thu hồi nợ tín dụng của công ty mua bán nợ tại Việt Nam: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện

Thứ hai - 06/10/2025 05:07
Tóm tắt:
Trong bối cảnh thị trường tài chính ngày càng phát triển và nhu cầu xử lý các khoản nợ tín dụng gia tăng, các công ty mua bán nợ đã trở thành bộ phận không thể thiếu trong cơ chế chuyển giao rủi ro, hỗ trợ tái cấu trúc tài chính cho doanh nghiệp và tổ chức tín dụng. Hoạt động thu hồi nợ của các công ty này bao gồm nhiều loại khoản nợ tín dụng khác nhau, từ nợ tốt đến nợ xấu. Tuy nhiên, việc thu hồi nợ hiện chủ yếu được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật rải rác trong lĩnh vực dân sự, thương mại và các văn bản hành chính, chưa có khung pháp lý chuyên biệt đồng bộ. Thực tiễn phát sinh nhiều vướng mắc về tính pháp lý của hoạt động thu hồi nợ, quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ, cũng như phương thức xử lý nợ phù hợp với quy định pháp luật. Nghiên cứu này đánh giá thực trạng pháp luật về thu hồi nợ tín dụng của công ty mua bán nợ tại Việt Nam. Từ đó, đề xuất các kiến nghị hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu hồi nợ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên và thúc đẩy phát triển thị trường tài chính ổn định, minh bạch.Từ khóa: Thu hồi nợ; công ty mua bán nợ; nợ tín dụng; pháp luật dân sự; pháp luật tài chính.
Nợ xấu
Nợ xấu

1. Đặt vấn đề

Thị trường tài chính Việt Nam phát triển mạnh mẽ kéo theo nhu cầu quản lý và xử lý các khoản nợ tín dụng ngày càng tăng. Trong bối cảnh đó, công ty mua bán nợ trở thành nhân tố trung gian quan trọng trong cơ chế chuyển giao rủi ro và tái cấu trúc tài chính cho doanh nghiệp và tổ chức tín dụng. Các khoản nợ tín dụng bao gồm cả nợ có khả năng thu hồi cao và nợ xấu, đòi hỏi phương thức thu hồi và xử lý phù hợp, linh hoạt theo đặc điểm từng loại nợ.

Tuy nhiên, hoạt động thu hồi nợ tín dụng của các công ty mua bán nợ hiện được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật phân tán, chưa có khuôn khổ pháp lý chuyên ngành rõ ràng và đồng bộ. Điều này gây ra nhiều khó khăn và vướng mắc trong thực tiễn, đặc biệt liên quan đến tính pháp lý của hoạt động thu hồi nợ. Ngoài ra, còn có các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ, cũng như các phương thức thu hồi phù hợp với quy định pháp luật. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật liên quan đến thu hồi nợ tín dụng của công ty mua bán nợ nhằm đánh giá thực trạng, nhận diện tồn tại, hạn chế và đề xuất kiến nghị hoàn thiện khuôn khổ pháp lý là hết sức cần thiết. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thu hồi nợ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan và thúc đẩy sự phát triển ổn định, minh bạch của thị trường tài chính Việt Nam.

2. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động thu hồi nợ của công ty mua bán nợ

2.1. Khái niệm và tư cách pháp lý của công ty mua bán nợ

Theo Quyết định số 105/2008/QĐ-TTg và Nghị định số 69/2016/NĐ-CP, công ty mua bán nợ là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán nợ thông qua chuyển nhượng quyền đòi nợ, hợp đồng vay hoặc các nghĩa vụ tài chính khác. Các công ty này có thể là doanh nghiệp nhà nước (như DATC) hoặc doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước được thành lập theo quy định pháp luật.

2.2. Cơ sở pháp lý hoạt động thu hồi nợ

Hoạt động thu hồi nợ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua bán nợ, qua đó công ty mua nợ trở thành chủ thể mới có quyền yêu cầu bên nợ thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Các văn bản pháp lý bao gồm:

- Bộ luật Dân sự 2015 (Điều 365–371, 428–430) quy định về chuyển giao nghĩa vụ và quyền đòi nợ.

- Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật Thương mại 2005 công nhận quyền kinh doanh hợp pháp đối với ngành nghề mua bán nợ.

- Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi 2017) và Luật Quản lý nợ công điều chỉnh gián tiếp các hoạt động xử lý nợ xấu.

Tuy nhiên, hiện chưa có quy định chuyên biệt về phương thức thu hồi nợ của công ty mua bán nợ, gây ra nhiều khoảng trống pháp lý và khó khăn trong thực thi.

3. Thực trạng hoạt động thu hồi nợ của công ty mua bán nợ xấu của các ngân hàng, tổ chức tín dụng tại Việt Nam

3.1. Vị trí và vai trò của công ty mua bán nợ trong hệ thống tài chính

Trong hệ thống tài chính Việt Nam, các công ty mua bán nợ xấu, bao gồm doanh nghiệp nhà nước như DATC, VAMC và các công ty thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đóng vai trò trung gian quan trọng trong tái cấu trúc khoản vay và xử lý nợ xấu cho ngân hàng, tổ chức tín dụng. Khi nợ xấu vượt quá khả năng xử lý nội bộ, các ngân hàng thường chuyển nhượng khoản nợ sang các công ty mua bán nợ nhằm: giảm tỷ lệ nợ xấu trên bảng cân đối; tránh phát sinh trích lập dự phòng lớn; tái lập tính thanh khoản và lành mạnh hóa hệ thống tín dụng.

3.2. Thực trạng thu hồi nợ sau mua bán – các mô hình và phương thức

a) Thương lượng tái cấu trúc: Phương thức đàm phán nhằm điều chỉnh kỳ hạn thanh toán, giảm lãi/phạt để thúc đẩy bên nợ hợp tác.

b) Xử lý tài sản bảo đảm: Thực hiện theo Nghị định 21/2021/NĐ-CP hoặc khởi kiện để cưỡng chế tài sản. Quy trình thường kéo dài, vướng thủ tục và bị kháng cự.

c) Khởi kiện dân sự: Biện pháp phổ biến khi bên nợ trốn tránh hoặc không có khả năng trả nợ. Tuy nhiên, thi hành án dân sự gặp khó do tài sản không đủ điều kiện cưỡng chế.

d) Chuyển nhượng lại khoản nợ: Khoản nợ được bán cho nhà đầu tư thứ cấp, nhưng thị trường còn hạn chế do thiếu khung pháp lý.

3.3. Một số khó khăn và bất cập

- Tính pháp lý của khoản nợ mua lại mờ nhạt do hồ sơ không đầy đủ, thiếu giấy tờ gốc, thiếu cập nhật thông tin.

- Thiếu hành lang pháp lý cụ thể cho hoạt động thu hồi ngoài tố tụng, dễ bị hiểu nhầm với đòi nợ thuê.

- Thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn phức tạp, chồng chéo, đi kèm rủi ro xã hội.

- Thiếu cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa ngân hàng, cơ quan đăng ký và công ty mua bán nợ.

3.4. Đặc thù riêng của VAMC

VAMC được thành lập theo Quyết định 843/QĐ-TTg năm 2013 nhằm xử lý nợ xấu hệ thống ngân hàng qua các hợp đồng mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt. Tuy nhiên, VAMC không có chức năng cưỡng chế độc lập, phụ thuộc tòa án và sự hợp tác từ các bên, gây trì trệ trong xử lý.

4. Một số rủi ro pháp lý trong hoạt động thu hồi nợ

4.1. Rủi ro về thẩm quyền và căn cứ thu hồi: Hợp đồng mua bán nợ không được công chứng hoặc thông báo đầy đủ có thể dẫn đến yêu cầu thanh toán bị bác bỏ hoặc trì hoãn.

4.2. Rủi ro về hành vi thu hồi nợ: Sử dụng phương thức quá mức có thể bị quy kết quấy rối, xâm phạm quyền riêng tư, vi phạm luật bảo vệ dữ liệu cá nhân.

4.3. Rủi ro đối với nhân sự thu hồi nợ: Có thể bị đe dọa, kiện tụng hoặc gặp nguy hiểm khi làm việc với bên nợ thiếu thiện chí.

5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

(1) Xây dựng Luật hoặc Nghị định chuyên ngành về mua bán và thu hồi nợ

Cần có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng biệt hoạt động mua bán và thu hồi nợ, bao gồm:

- Điều kiện kinh doanh và năng lực chủ thể;

- Quy trình mua, bán, chuyển nhượng nợ;

- Phương thức thu hồi nợ hợp pháp;

- Trách nhiệm pháp lý khi phát sinh tranh chấp.

(2) Quy định rõ cơ chế bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên

Pháp luật cần bảo vệ quyền lợi của bên mua nợ hợp pháp khi thực hiện quyền thu hồi. Đồng thời, cũng cần cơ chế bảo vệ người có nghĩa vụ trả nợ khỏi các hành vi thu hồi nợ vượt giới hạn pháp luật.

(3) Chuẩn hóa nghiệp vụ và quy tắc đạo đức trong thu hồi nợ

Xây dựng bộ quy tắc ứng xử và tiêu chuẩn nghề nghiệp cho nhân sự thu hồi nợ, nhằm đảm bảo hoạt động thu hồi diễn ra minh bạch, văn minh và phù hợp đạo đức nghề nghiệp.

(4) Thiết lập cơ chế hòa giải, trung gian tài chính

Khuyến khích sử dụng trọng tài thương mại hoặc trung tâm hòa giải để xử lý tranh chấp nợ, giúp giảm tải cho tòa án và nâng cao hiệu quả thu hồi.

6. Kết luận

Hoạt động thu hồi nợ của công ty mua bán nợ đóng vai trò quan trọng trong quá trình lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy khung pháp lý hiện hành còn thiếu tính chuyên sâu và chưa theo kịp sự phát triển của thị trường. Việc hoàn thiện pháp luật không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan mà còn góp phần xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, hiệu quả và ổn định trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Quốc hội. (2015). Bộ luật Dân sự. Luật số 91/2015/QH13, ngày 24/11/2015.
  2. Quốc hội. (2020). Luật Doanh nghiệp. Luật số 59/2020/QH14, ngày 17/6/2020.
  3. Chính phủ. (2021). Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 về đăng ký và quản lý biện pháp bảo đảm.
  4. Thủ tướng Chính phủ. (2013). Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 về việc thành lập VAMC.
  5. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. (2022). Báo cáo thường niên năm 2022.
  6. Nguyễn Thị Lan. (2022). Rủi ro pháp lý trong hoạt động xử lý nợ xấu. Tạp chí Ngân hàng, (24), 34–40.
  7. Trần Quốc Vượng. (2023). Pháp luật về thu hồi nợ trong hoạt động mua bán nợ – Thực trạng và định hướng. Tạp chí Khoa học pháp lý, (3), 12–19.

Tư vấn viên pháp luật Đỗ Minh Chánh

Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật TP. Hồ Chí Minh

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn


Những tin cũ hơn


vietcombank_r
vietcombank_r
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây